![]() |
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy được tích luỹ trong quá trinh nhặn thức ttên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết.
Theo truyền thống, hệ khoa học thường được chia thành ba nhánh cơ bản là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kĩ thuật. Ở Việt Nam, hệ khoa học chia thành: khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn (có tài liệu phân thành: khoa học tự nhiên, khoa học lã thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn). Mỗi khoa học đều có phần cơ bản và ứng dụng. Khoa học cơ bản là hệ thống tri thức lí thuyết phản ánh các thuộc tính, quan hệ, quy luật khách quan của lĩnh vực, hiện tượng được nghiên cứu. Khoa học ứng dụng là hệ thống tri thức đưa ra những con đường, những biện pháp, hình thức ứng dụng tri thức khách quan (lý thuyết) vào thực tiễn phục vụ cho lợi trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Công nghệ không chỉ tồn tại dứới dạng vật chất mà là tổng thể các yếu tố con người có thể biết được, đạt được, nắm bắt được ở dạng tri thức.
Khoa học và công nghệ có vai trò to lớn với lịch sử phát triển của loài người, thể hiện ở những mặt sau đây: Khoa học và công nghệ là phương tiện để con người khám phá, chinh phục và cải tạo giới tự nhiên; Khoa học và công nghệ là biện pháp căn bản để nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất.
Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động chuyên biệt nhằm tìm kiếm, phát hiện, lí giải về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy cũng như các hoạt động ứng dụng các tri thức vào phục vụ sản xuất và đời sống của con người.
Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học thường được tiến hành dưới hình thức là đề tài nghiên cứu khoa học với yêu cầu nghiên cứu rõ ràng và mục tiêu xác định, kết quả của hoạt động này là các tri thức khoa học mới được tìm ra, được khẳng định, được chứng minh, là tri thức mới có thể được tìm ra, được ứng dụng có kết quả hoặc không.
Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động có tính kế thừa và tích luỹ. Trong hoạt động khoa học và công nghệ, tri thức con người đi từ chỗ chưa biết đến biết, các tri thức trước là cơ sở, nền tảng để tìm hiểu các tri thức sau, các tri thức sau là sự kế thừa, phát triển các tri thức trước. Đó là sự kế thừa của người đi sau với người đi trước, của hoạt động này với hoạt động khác và sự tự kế thừa, tích luỹ của từng chủ thể tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ.
Với nguyên tắc "phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân", bất kì một tổ chức, cá nhân nào cũng có thể trở thành chủ thể của hoạt động khoa học và công nghệ tuỳ theo khả năng và tuân theõ các quy định của pháp luật.
Tổ chức khoa học và công nghệ là các tổ chức được thành lập để chuyên thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ. Theo quy định của Luật khoa học và công nghệ, hình thức tổ chức khoa học và công nghệ gồm: Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình thức khác); cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật giáo dục đại học; tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được tổ chức (dưới hình thức trung tâm, văn phòng, phòng thử nghiệm và hình thức khác).